Ngày D (6 tháng 6 năm 1944) Bãi Utah

Thiết giáp hạm Nevada đang khai hỏa dàn pháo 14"/45 vào các mục tiêu ở bãi Utah, ngày 6 tháng 6 năm 1944

Chiến dịch không kích Normandie bắt đầu vào nửa đêm với việc hơn 2,200 máy bay ném bom của Anh và Mỹ tấn công vào các mục tiêu ở xung quanh bãi biển và trong đất liền.[37] Hơn 1,200 máy bay đã cất cánh trước nửa đêm cùng với 3 sư đoàn không vận của Mỹ và Anh đến các vụ trí thả quân ở sau phòng tuyến của Đức.[46] Sư đoàn Không vận 101 Hoa Kỳ bắt đầu đổ bộ lúc 01:30, có nhiệm vụ chiếm giữ các tuyến đường chính phía sau Utah và phá hủy hệ thống cầu đường qua sông Douve.[47] Việc tập hợp đội hình gặp nhiều khó khăn do thiếu hoặc mất nhiều radio và bị địa hình cản trở.[48] Sư đoàn Không vận 82 bắt đầu đổ bộ lúc 02:30, với mục tiêu là phá hủy hai cây cầu bắc qua sông Douve và chiếm giữ nguyên vẹn hai cây cầu ở sông Merderet.[47] Họ nhanh chóng chiếm được các giao lộ quan trọng ở thị trấn Sainte-Mère-Église và tiến hành củng cố tuyến phòng thủ ở phía tây. Trung tướng Wilhelm Falley, chỉ huy Sư đoàn Bộ binh 91 Đức, bị một lính dù Mỹ bắn chết khi ông đang trên đường quay về sở chỉ huy ở Picauville sau buổi tập trận ở Rennes.[49] Hai tiếng trước khi lực lượng chính đổ bộ vào bãi biển, một nhóm xung kích gồm 132 người của Trung đoàn Kỵ binh số 4 đã đổ bộ lúc 04:30 tại Îles Saint-Marcouf, nơi được nghi ngờ là có một trạm quan sát của Đức. Trạm đó đã bị bỏ trống, tuy nhiên, hai lính Mỹ tử trận và 17 người khác bị thương do mìn và hỏa lực pháo binh của Đức.[50]

Khi các tàu vận tải của Lực lượng U tiến về điểm tập kết cách bãi biển khoảng 19 km, 5,000 binh lính của Sư đoàn Bộ binh số 4 và các đơn vị đổ bộ vào Utah bắt đầu lên tàu đổ bộ và di chuyển tới điểm chờ trong điều kiện biển động mạnh.[51] 18 tàu làm nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực tại Utah, trong đó có thiết giáp hạm Neveda, tuần dương hạm Tuscaloosa của Hải quân Hoa Kỳ, tàu pháo Erebus và tuần dương hạm Hawkins của Hải quân Hoàng Gia Anh và tàu pháo Soemba của Hải quân Hoàng gia Hà Lan, bắt đầu oanh tạc các mục tiêu phía sau bãi biển lúc 05:45. Khu trục hạm Corry trúng mìn và chìm khi đang tránh hỏa lực phản pháo từ ụ pháo Marcouf, dưới sự chỉ huy của Đại úy Walter Ohmsen, từ trong đất liền.[50] Do cuộc đổ bộ vào Utah và Omaha bắt đầu lúc 06:30 (sớm hơn một giờ so bãi của Anh và Canada), nên các khu vực này được bắn phá hơn 40 phút trước khi lực lượng đổ bộ bắt đầu tiến vào.[52] Nhiệm vụ không kích được tiến hành trước đợt đổ bộ khoảng 20 phút, với sự tham gia của hơn 300 máy bay Martin B-26 Marauders.[50] Do mây dày che phủ, các phi công quyết định ném bom ở độ cao thấp (1,200-1,800 m). Đợt ném bom đạt nhiều hiệu quả cao và họ chỉ mất 2 máy bay.[53]

Đổ bộ

Bản đồ ghi lại vị trí bãi đổ bộ, vị trí bắn phá và vị trí của các tàu chiến Đồng Minh vào Ngày D. Utah nằm ở góc trái bức ảnhSơ đồ đổ bộ vào Utah theo kế hoạch (phải) và thực tế (trái)Một đạn pháo 88 mm phát nổ tại Bãi Utah của Sư đoàn Bộ binh số 4, 6 tháng 6 năm 1944

Đợt đổ bộ đầu tiên bao gồm 20 xuồng LCVP chở bốn đại đội của Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Bộ binh số 8, tiến hành lúc 06:30. Đại đội B và C đổ bộ vào khu vực mang định danh Tare Green, và Đại đội E và F đổ bộ vào khu vực Uncle Red ở bên trái.[54] Đại úy Leonard T. Schoroeder, chỉ huy đại đội F, là người đầu tiên đặt chân xuống bãi biển. Các tàu đổ bộ đã tiến xa về phía nam do các dòng chảy mạnh, và nhận ra họ đã đổ bộ tại gần khu vực Exit 2 ở Grand Dune, cách khu vực đổ bộ dự định của họ là Exit 3 khoảng 1.8 km, Phó chỉ huy Sư đoàn Bộ binh số 4, Chuẩn tướng Theodore "Teddy" Roosevelt Jr. đã đổ bộ cùng người của ông. Sau khi nhận ra họ đã đổ bộ vào sai vị trí, ông đã tự mình đi khảo sát khu vực đổ bộ. Teddy Rossevelt thấy khu vực này có vị trí thuận lợi hơn vì chỉ có một trọng điểm so với hai trọng điểm ở khu vực dự tính, và nó đã bị phá hủy bởi đợt không kích của nhóm B-26 buổi sáng hôm đó. Ngoài ra, các đợt sóng mạnh buổi sáng đã quét đi gần hết số chướng ngại vật được đặt ở dưới mặt nước. Teddy sau đó quay về điểm đổ bộ và liên lạc với hai tiểu đoàn trưởng là Trung tá Conrad C. Simmons và Carlton O. MacNeely của 2 tiểu đoàn đổ bộ đợt sau để phối hợp tấn công ở điểm đổ bộ mới. Thay vì tốn thêm thời gian để đưa quân về địa điểm đổ bộ cũ, tướng Teddy Roosevelt đưa ra quyết định qua một câu nói nổi tiếng "Chúng ta sẽ bắt đầu trận chiến ngay tại đây" ("We'll start the war from right here!") và truyền lệnh tới các đơn vị phía sau về khu vực đổ bộ mới.[55][56]

Đợt đổ bộ thứ hai bao gồm 32 xuồng LCVP lên bờ lúc 06:35. Đại đội A và D của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Bộ binh số 8, đổ bộ vào khu vực Tare Green và Đại đội G và H đổ bộ vào khu Uncle Red. Đổ bộ cùng họ là các đơn vị công binh Lục quân và đội phá dỡ làm nhiệm vụ phá hủy và dọn dẹp các chướng ngại vật trên bãi biển.[57]

Các đơn vị của Tiểu đoàn Thiết giáp số 70, bao gồm 32 xe tăng M4A1 Sherman DD chở trên 8 xuồng LCT, dự tính đổ bộ vào bãi biển trước lực lượng bộ binh khoảng 10 phút. Tuy nhiên, gió mạnh đã khiến họ đổ bộ chậm 20 phút, dù họ đã thả xe tăng ở vị trí cách bãi biển 1,400m thay vị 4,600m so với kế hoạch ban đầu. Trong lúc tiến vào, Xuồng LCT-(6)593 đã đâm phải mìn ở vị trí cách bãi biển khoảng 4,8 km, khiến toàn bộ bốn xe tăng của Đại đội A và phần lớn thành viên tử trận, chỉ duy nhất một người sống sót (Trung sĩ Glenn E. Gibson). 28 xe tăng còn lại lên bờ an toàn.[58]

Đợt thứ ba đổ bộ lúc 06:45, gồm 16 xe tăng Sherman và 8 máy xúc của Tiểu đoàn Thiết giáp số 70. Đợt bốn đổ bộ ngay sau, với 8 xuồng LCM và 3 xuồng LCVP chở hai Đại đội Công binh 237 và 299 làm nhiệm vụ dọn dẹp bãi biển.[57]

Đại đội B gặp kháng cự nhỏ tại dãy nhà ven con đường dẫn đến cứ điểm WN7 gần La Madeleine, ở phía tây bắc La Grande Dune và cách biển khoảng 550 m. Họ sau đó gặp kháng cự yếu ớt ở WN7, sở chỉ huy của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn Grenadier 919. Đại đội C nhanh chóng vô hiệu hóa cứ điểm WN5 tại La Grande Dune, vốn đã bị vô hiệu hóa sau đợt không kích của máy bay ném bom. Đại đội E và F tiến sâu vào đất liền khoảng 640 m tới cứ điểm WN4 tại La Dune, và nhanh chóng chiếm giữ sau một trận đụng độ nhỏ. Họ sau đó di chuyển về phía nam song song với bãi biển theo Đường số 1. Đại đội G và H di chuyển về phía Nam dọc theo bãi biển về cứ điểm WN3 ở Beau Guillot, Họ bắt gặp một bãi mình và chịu hỏa lực súng máy bắn trả của quân Đức.[59][60] Tiểu đoàn Thiết giáp 70 có nhiệm vụ vô hiệu hóa các cộng sự này, nhưng các cộng sự được bộ binh vô hiệu hóa nhanh chóng nên những đóng góp ban đầu của họ rất ít. Trong khi đó, các đợt quân tiếp viện tiếp tục đổ bộ lên bãi biển.[61]

Việc phá mìn và dọn chướng ngại vật trên bãi biển phải được hoàn thành nhanh chóng trước khi thủy triều lên lúc 10:30, và công việc này được giao cho Tiểu đoàn Công binh 237 và 299 với 8 máy xúc.[62] Họ dùng thuốc nổ để phá các chướng ngại vật và phá các lớp tường để binh lính và xe cộ có thể dễ dàng di chuyển vào đất liền.[63]

Tiến vào đất liền

Lính Mỹ thuộc Sư đoàn Bộ binh số 4 đổ bộ tại Bãi Utah, 6 tháng 6 năm 1944

Nhiệm vụ tiếp theo của Sư đoàn Bộ binh số 4 là phải di chuyển sâu vào trong đất liền trên ba tuyến đường chính để hội quân với Sư đoàn Không vận 101.[64] Tiểu đoàn 2 cùng vài xe tăng tiến vào theo Đường số 1 về Poupeville, và họ nhận ra thị trấn này đã được Tiểu đoàn 3, Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 501 chiếm giữ.[65] Vài nhóm lính Đức bị kẹt giữa hai đơn vị lính Mỹ đã đầu hàng nhanh chóng.[66] Đường số 2, tuyến đường nối thẳng với La Grande Dune, trở thành đoạn đường chính để tiến ra khỏi bãi biển.[67] Để kiểm soát được đoạn đường này, lính Mỹ phải chiếm được thị trấn Ste. Marie du Mont cách đó 4.8 km.[68] Quân Đức đã cho phá hủy một cây cầu nhỏ bắc qua một dãy cống, khiến việc di chuyển bị chững lại. Đường số 2 gặp ùn tắc nghiêm trọng nên một số đơn vị đã chọn cách lội qua những khu vực bị ngập ven đường.[63] Có hàng trăm lính phòng thủ Đức đóng trong và xung quanh Ste. Marie du Mont, bao gồm các thành phần từ Trung đoàn Dù số 6 và Sư đoàn Bộ binh số 91.[69] Trung đoàn Nhảy dù 506 đã tấn công và phá hủy các khẩu pháo của quân Đức ở Holdy và Brécourt Manor và chiếm thị trấn Ste. Marie du Mont để mở đường cho Tiểu đoàn 3, Trung đoàn Bộ binh số 8 tiến vào.[70] Tiểu đoàn 1 di chuyển trên Đường số 3 dẫn tới Audouville-la-Hubert, vốn đã được chiếm bởi Trung đoàn Nhảy dù 502 vào rạng sáng.[71]

Trong lúc đó, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn Bộ binh 22 cùng 5 xe tăng tiến về phía bắc dọc theo bãi biển, có nhiệm vụ vô hiệu hóa càng nhiều cứ điểm của Đức càng tốt. Họ nhận ra rằng hỏa lực của xe tăng chỉ có thể phá hủy các lô cốt bê tông bằng phát đạn trực tiếp vào các khe thông khí, nên họ đã gọi hỏa lực pháo của Hải quân ở ngoài khơi.[72] Vào buổi chiều, họ hội quân cùng Trung đoàn Bộ binh 12, một đơn vị đã di chuyển trực tiếp qua các bãi ngập để đến một vị trí rất xa so với mục tiêu của họ trong ngày, để tạo một vành đai phòng thủ ở phía bắc bãi biển.[4][73] Ở phía nam bãi biển, hơn 3,000 lính dù của Trung đoàn Dù (Fallschirmjäger) số 6 Đức đã tiến vào Saint-Côme-du-Mont, và đã chặn đứng đà tiến của Trung đoàn Nhảy dù 501 trong Ngày D.[74]

Tại trung tâm đất liền, Sư đoàn Không vận 82 nhanh chóng lập tuyến phòng thủ xung quanh Sainte-Mère-Église một phần nhờ Trung úy Turner Turnbull cùng trung đội 43 người của anh, họ đã chặn đà tấn công của lính Đức nhằm tái chiếm một giao lộ tiến vào thị trấn hơn hai tiếng đồng hồ.[75] Một lực lượng được chỉ huy bởi Đại tá Edson Raff bao gồm 16 xe tăng Sherman từ Tiểu đoàn Thiết giáp 746, 4 xe thiết giáp và một tiểu đội bộ binh đã mở đường vào hỗ trợ, nhưng bị chặn lại do gặp kháng cự của quân Đức ở vị trí cách thị trấn 3.2 km về phía nam.[76] Lực lượng tiếp viện chuyên chở bằng tàu lượn tiến vào lúc 04:00 và 21:00, đem theo binh lính và trang thiết bị bổ sung. Như những tốp lính dù đổ bộ trước đó, nhiều toán tàu lượn đã hạ cánh xa hơn vị trí dự định của họ.[77] Nhiều tàu lượn gặp khó khăn mang hàng hóa nặng và phải hạ cánh trên địa hình trơn và ướt, nên xảy ra nhiều tai nạn và thương vong nghiêm trọng. Quân Đức cũng gây ra nhiều thiệt hại cho các đơn vị tàu lượn, với tổn thất nặng nề được gây ra ở khu vực gần Sainte-Mère-Église.[78] Lính dù nhảy ở khu vực phía tây sông Merderet bị phân tán rộng rãi và bị bao vây.[79] Quân Đức sau đó đã thiết lập tuyến phòng thủ xung quanh sông Merderet, khiến việc tiếp viện lính dù gặp nhiều trì hoãn.[80] Trong vòng 36 giờ, Sư đoàn Không vận 82 không thể liên lạc được với bất kì đơn vị nào khác và với tướng Collins trên tàu USS Bayfield.[81]

Sư đoàn Không vận 82 được tiếp quản và thay thế bởi Sư đoàn Bộ binh 90, và họ rút quân lúc 16:00 và tập trung ở bãi biển ngày 8 tháng 6. Mục tiêu ban đầu của Sư đoàn 90 là tiến lên phía bắc về khu cảng ở Cherbourg, nhưng Collins đã thay đổi kế hoạch: họ sẽ cắt ngang Bán đảo Cotentin, cô lập quân Đức trong khu vực và ngăn chặn các đợt tiếp viện của quân Đức vào khu vực.[82] Tuy nhiên, Sư đoàn 90 không đạt được mục tiêu đề ra, và họ được thay thế bởi hai đơn vị nhiều kinh nghiệm hơn là Sư đoàn Không vận 82 và Sư đoàn Bộ binh số 9. Hai đơn vị tiến về phía tây của Cotentin vào ngày 17 tháng 6 và cô lập Cherbourg.[83] Trung đoàn bộ binh số 4 và 79 và Sư đoàn Bộ binh số 9 đã giành kiểm soát được khu vực Bán đảo sau đợt giao tranh ác liệt. Cherbourg thất thủ vào ngày 26 tháng 6, nhưng vào thời điểm quân Đồng Minh chiếm được Cherbourg, hệ thống cảng và nhiều công trình trong khu vực đã bị quân Đức phá hủy trước khi đầu hàng. Sau ba tháng sửa chữa, cảng Cherbourg được đưa vào hoạt động trở lại và bắt đầu tiếp nhận hàng hóa tiếp tế cho quân Đồng Minh chiến đấu ở Mặt trận phía tây.[84]